slide

Thứ Tư, 25 tháng 6, 2014

Về với Đồng Cói Huyện Kim Sơn - Ninh Bình

Nguyên liệu cho Chiếu Cói ( Đồng cói Kim Sơn - Ninh Bình )
 

Vùng nguyên liệu chiếu cói đồi dào. Ai đã tới Ninh Bình chưa? Và tới Ninh Bình ai có đi miền Phát Diệm, Kim Sơn không nhỉ? Nơi đây là đất cói, một loại cây trồng ven bờ đê, dùng để dệt chiếu.

Những cánh đồng cói bát ngát, liên tiếp nhau ở Cồn Thoi cách Phát Diệm hơn mười cây số, chỗ sông Đáy chảy ra bể, chia làm hai nhánh, nơi tỉnh Ninh Bình tiếp giáp địa phận Thanh Hóa.

Thân cói xanh xanh, cọ sát vào nhau rào rào theo từng cơn gió bể. Những cánh hoa đo đỏ, giống như hoa ngô đồng, nổi bật trên đám lá xanh. Suốt khắp cồn Thoi, trông giống hình một con thoi dệt vải, man mác chỉ cói và cói. Những ngọn cói ngả đầu vào nhau theo chiều gió, và gió lướt trên những ngọn cói như sóng gợn rung rinh. Hoa đo đỏ, lá xanh xanh dao động. Vài con bướm nhởn nhơ bay từ cánh hoa này sang cánh hoa khác. Thỉnh thoảng vụt bay từ giữa đám cói ra một vài con két, con rẽ, con sít, hoặc con mùng.

Hai nhánh sông Đáy lững lờ bao bọc lấy cồn Thoi, nước lờ lờ xanh, hòa hợp với màu cói xanh, cũng như với nền trời xanh thẳm. Một vài con thuyền đủng đỉnh, của người đánh cá, hoặc chở khách ngang sông. Xa xa, ngọn núi Nẹ đứng sừng sững một mình, im lặng, thăm thẳm màu lam, mấy sợi mây trắng nhẹ nhàng giăng trên đỉnh. Núi như tấm bình phong chắn ngang mênh mông đồng cói. Đàn chim hải âu bay ngang trời. 

Về mé biển, sát cánh đồng cói, nơi nước mặn sàn sàn tràn ngập, đấy là rừng vẹt. Những cây vẹt xanh biếc cưng cứng tựa lá si, mọc suốt ven bể, lan mãi ra xa. Đất có nước mặn là có cây vẹt. Màu xanh biếc của vẹt điều hòa màu nước biển xanh thẫm với màu xanh tươi của cánh đồng cói. Phải chăng tại đây hóa công muốn tô điểm cho phong cảnh không chỉ bằng sông núi mà bằng cả nhịp nhàng của màu sắc nữa.

Trên bát ngát mấy màu xanh nhịp nhàng đó, những đàn le le, sâm cầm, mòng két thỉnh thoảng lại vụt bay như muốn tạo tâm hồn linh động cho cảnh vật. Trời mây nhẹ trôi, biển bao la man mác, vài chiếc thuyền căng buồm đè mặt nước, phong cảnh trông thật hữu tình, nên thơ.

Và ở cánh đồng cói, các cô thôn nữ xinh tươi đang cùng nhau cắt cói, nói nói cười cười, bên các chàng trai lanh lẹn hoạt bát luôn luôn đáp lời các cô một cách đậm đà duyên dáng.

Ngoài làm chiếu cói, còn làm những sản phẩm đặc trưng của quê Hương. Cói là một nguồn lợi của dân chúng vùng Phát Diệm, Kim Sơn. Cói dùng để làm chiếu và bổi cói dùng để lợp nhà. Những cánh đồng cói ở đây đã giúp cho người dân được sung túc, đỡ lam lũ hơn các vùng đông dân cư khác ở quanh vùng.

Ruộng trồng cói phải cày bừa trong năm đầu kỹ lưỡng. Sau đó cói được trồng và với mầu mỡ đất gần biển, lớn dần. Cói trồng vào tháng mười năm trước, tới tháng tám năm sau có thể thu hoạch. Trong thời gian này, chủ ruộng chỉ cần thỉnh thoảng xẻ rãnh cho có nước vào ruộng. Sự trông nom không vất vả mấy. Thu tới, sau những trận mưa ngâu tháng bảy, cói trổ hoa. Hoa cói báo hiệu ngày gặt cói sắp tới.

Với thu sang, đàn én từ phương bắc bay về, mỗi buổi chiều sè sè liệng trên cánh đồng cói, chao qua chao lại. Tiết thu hơi lành lạnh và buổi chiều sương thu buông thả, phủ lên ruộng cói bao la. Thân những cây cói nhẹ cọ sát vào nhau từng lúc nghe như nỉ non than thở.

Người ta gặt cói về tháng tám. Cói gặt xong lớp này, lớp khác sẽ lại mọc lên, và đến tháng tám năm sau người ta lại gặt lượt khác. Một ruộng cói chỉ cần cày bừa và trồng trong năm đầu, những năm sau cói cứ tự nhiên mọc lên. Có thể gặt mười vụ liên tiếp mới cần cày bừa lại ruộng và trồng cói lại.

Cánh đồng cói vui vẻ nhất về mùa gặt. Trời thu trong và dịu. Gió thu nhè nhẹ mát. Lòng người ta thư thái thênh thang. Người ta hân hoan đón gặt những cây cói, những cây cói quý báu sẽ biến thành tài sản của người ta.

Dân chúng mấy xã Tân Mỹ, Kim Đài, Văn Hải v.v., ngay từ lúc chớm thu người ta đã sửa soạn cho vụ gặt cói, chỉ đợi hoa cói nở rộ, thân cói già hơn một chút là rủ nhau đi gặt. Đầu tháng tám hoa cói đỏ khắp cánh đồng, rung rinh với gió thu, dưới những cánh bướm chập chờn cùng những đàn ong từ núi Nẹ tới tấp bay ra hút nhị về làm mật. Thân cây cói sẫm hơn, và cũng có một số cây ngả từ màu xanh sang màu vàng nhợt.

Người ta bắt đầu vụ gặt.

Tờ mờ sáng, tự các ngả làng người ta lũ lượt dắt nhau ra cánh đồng, đàn ông có, đàn bà có. Vừa đi họ vừa vang vang nói chuyện, gây nên một cảnh nhộn nhịp trên những con đường làng. Có những cô thiếu nữ xinh tươi, cười nhí nhảnh với những chàng trai nhanh nhẹn cố ý đi sát bên cạnh để nói vài câu chuyện không đâu. Có những người đứng tuổi đi nghiêm trang giữa đám thanh niên đang bông đùa...

Dân làng đi tới những ruộng cói, kéo nhau xuống cắt. Một tay cầm liềm, tay cầm nắm cói, họ đưa liềm cắt vào chân cói. Cói cắt xong được đặt ngay tại chỗ. Họ vừa lúi húi cắt cói vừa nói chuyện với nhau, câu chuyện làm cho công việc nhẹ nhàng hơn. Nơi này thiếu nữ cắt, nơi kia thanh niên “đon” cói thành từng “gù”, nghĩa là bó cói thành từng bó dài, chỗ nọ vài bà già bận rộn cắt bỏ những bông hoa cói, chỗ khác nữa dăm ba thiếu phụ “soi gương” những gù cói, nghĩa là xén chân cho đều. Các em bé cũng có công việc: các em nhặt những “bổi” cói, tức những cây cói kẹ mà khi đon gù người ta bỏ lại, để xếp thành từng đống. Bổi cói rồi sẽ được bó, đánh nên “danh” bổi để lợp nhà.

Lớn, bé, già, trẻ, thiếu nữ thanh niên, ai nấy đều chăm chú với công việc của mình. Họ cặm cụi làm việc, mặc dầu họ luôn luôn cùng nhau trò chuyện cho đỡ mệt.

Ruộng cói nào cũng thấp thoáng bóng người, với những cử động làm rung rinh ngọn cói chưa cắt. Thỉnh thoảng lại vụt lại vài tiếng cười giòn giã của các thiếu nữ vừa được nghe một vài câu chuyện vui trong lúc làm việc. Mùi cói thơm thơm hòa lẫn mùi đất miền duyên hải dịu dịu.

Đi cắt cói, đàn ông cũng như đàn bà ăn mặc rất gọn gàng, chỉ có quần nâu áo nâu. Các cô gái đội thêm một chiếc khăn vuông màu nâu đỏ để giữ cho tóc khỏi xõa (...)

Những bó cói được cắt hoa, soi gương xong, được xếp xuống thuyền để đưa về làng, nhưng một số lớn cũng do người ta đội về (...)

Cói gặt về được chẻ làm tư, phơi khô và dùng dệt chiếu, đan bị, hoặc tết những túi nhỏ gửi bán ở thành thị. Khi cói phơi đã khô, người ta sẽ lựa chọn phân loại, để tùy theo việc mà dùng. Những sợi cói nhẵn đẹp, trắng, không ố, không vết sẽ được để riêng dành dệt loại chiếu đậu là loại chiếu tốt. Loại kém hơn dùng dệt chiếu sô, tức chiếu thường, loại này dệt xong có khi được in hoa, gọi là chiếu hoa. Lại có thứ chiếu hoa cải, dệt máy bằng những sợi cói đã nhuộm sẵn. Những sợi cói kém nhất dùng để đan bị, đan bao (...)



(Trích Toan Ánh, Gái đẹp xứ Bắc)
                                       

Thứ Hai, 23 tháng 6, 2014

Tỉnh Ninh Bình duy trì, phát triển vùng trồng cói và sản phẩm từ cói

Kim Sơn -  Ninh Bình đang thực hiện nhiều biện pháp duy trì và phát triển vùng trồng cói và các sản phẩm truyền thống từ cây cói chiếu cói để giải quyết việc làm, ổn định đời sống nhân dân.

Cây cói và chiếu cói đã gắn bó với người dân Kim Sơn cách đây gần 2 thế kỷ. Qua 5 lần quai đê lấn biển, Kim Sơn đã thực hiện tốt phương châm "lúa lấn cói, cói lấn biển", với diện tích lúc nhiều nhất lên đến hơn 1.000 ha, sản lượng đạt hơn 10.000 tấn cói chẻ. Các làng nghề sản xuất, chế biến cói phát triển ở khắp thôn, xã, thường xuyên giải quyết việc làm cho hơn 60.000 lao động, giá trị sản xuất từ cói của huyện nhiều năm đạt từ 120 - 130 tỷ đồng/năm. Các mặt hàng chiếu cói, sản phẩm mỹ nghệ từ cói đã xuất khẩu đến nhiều thị trường trên thế giới. 

Tuy nhiên, 2 năm trở lại đây, cây cói Kim Sơn gặp nhiều khó khăn, người trồng cói thua lỗ, sản phẩm cói "đói" thị trường, nhiều cơ sở chế biến phải ngừng sản xuất hoặc phải thay đổi mẫu mã hướng vào thị trường trong nước và người tiêu dùng bình dân. Diện tích cói của huyện đã giảm hơn 340 ha so với trước. Nhiều nơi, nông dân phá cói, trồng lúa để tăng nguồn lương thực. Nếu như trước đây, cây cói mang lại hiệu quả gấp 2 - 3lần trồng lúa, thì đến thời điểm vừa qua, mỗi ha cói chỉ thu được khoảng 15 triệu đồng/ha/năm, bằng 1/2 thu nhập của người trồng lúa, trong khi trồng cói tốn rất nhiều công chăm sóc, chi phí gấp rưỡi so với trồng lúa. Cùng với đó, các doanh nghiệp sản xuất chế biến sản phẩm cói gặp khó khăn, một số doanh nghiệp chuyển sang sản xuất bằng nguyên liệu bẹ chuối, bèo tây, nứa chắp...Giá cói nguyên liệu xuống thấp, nhiều người đã bỏ không thu hoạch. Ông Đoàn Kim Ly, Phó Chủ tích UBND huyện Kim Sơn cho biết: Người trồng cói trên địa bàn huyện đang gặp khó khăn vì giá cói xuống thấp, nhiều hộ không đủ tiền thuê nhân công thu hoạch cói, có hộ lỗ hàng triệu đồng.

Để duy trì vùng nguyên liệu cói, giữ vững ngành nghề chế biến hàng mỹ nghệ từ cói, tỉnh Ninh Bình đã triển khai qui hoạch lại vùng cói với việc xây dựng hệ thống thủy lợi theo vùng tập trung, thuận lợi cho nhân dân phát triển cây cói. Tỉnh hỗ trợ 4 triệu đồng/ha giống cói được trồng mới, diện tích cói cải tạo được hỗ trợ 2 triệu đồng/ha. Nguồn kinh phí trên được cấp trực tiếp cho hộ nông dân trên cơ sở nghiệm thu thực địa bảo đảm chất lượng và qui trình kỹ thuật. Riêng huyện Kim Sơn cũng hỗ trợ 1 triệu đồng cho vùng trồng cói mới và 500.000 đồng/ha cải tạo trồng lại cói. Trước mắt, Ninh Bình tập trung đầu tư phát triển vùng nguyên liệu cói tập trung tại Công ty nông nghiệp Bình Minh với diện tích 450 ha trong năm 2009. Tỉnh và huyện Kim Sơn đầu tư cho Công ty 10 tỷ đồng nâng cấp hệ thống kênh mương tưới tiêu, đưa giống cói mới của Nhật Bản và các giống cói tốt trong nước vào sản xuất, trên cơ sở đó từng bước mở rộng diện tích cói ở các xã được qui hoạch như Định Hoá, Văn Hải, Kim Mỹ , Kim Tân, Lai Thành. Tỉnh cũng khuyến khích các nhà đầu tư vào khâu sản xuất chế biến cói, giúp các doanh nghiệp đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại, tìm kiếm thị trường đa dạng hoá sản phẩm để giữ vững thương hiệu sản phẩm từ cây cói Kim Sơn./.
Các từ khóa theo tin:
(Theo TTXVN)
tag: chieu coichiếu cóichieu coi thai binhchiếu cói thái bình

Thứ Sáu, 20 tháng 6, 2014

Chiếu cói xuất dương

      Làng nghề chiếu cói truyền thống Định Yên (Lấp Vò, Đồng Tháp) có từ trăm năm trước, qua nhiều thế hệ sản xuất thủ công nhọc nhằn, lam lũ. Mấy năm nay, khi có máy móc thay thế sức người, chiếu cói Định Yên xuất dương mang về sự sung túc.
     Đi Qua thị xã Sa Đéc vài chục cây số, tới Định Yên là biết ngay làng chiếu. Làng xóm vang tiếng máy dệt chiếu. Tôi vào HTX Thanh Bình, cơ sở sản xuất chiếu cói lớn nhất xã. Mấy chục chiếc máy dệt chiếu đang chạy hết công suất. Chị Nguyễn Thị Thủy, bên chiếc máy dệt, xởi lởi: “Bây giờ làm chiếu khác trước nhiều rồi, có máy dệt nên đỡ vất vả và cũng dễ kiếm cái ăn hơn”.
     Chị Thủy 45 tuổi, dệt chiếu từ khi mới 9 tuổi đến giờ, chứng kiến nhiều đổi thay. Chị không biết nghề chiếu Định Yên có từ bao giờ, chỉ biết đời cha mẹ, ông bà nội ngoại đều làm chiếu rồi truyền lại. Nghề chiếu thủ công truyền đời, nên tay người Định Yên không ai là không nhằng nhịt sẹo do đứt dao hoặc sợi cói cắt xước.
     Bây giờ khác rồi, cói được chẻ bằng máy. Sợi cói tự nhiên được hấp nhuộm, phơi trở mấy lần cho đạt màu sắc theo yêu cầu, mới đưa vào dệt. Dệt chiếu là công đoạn vất vả nhất. Trước kia làm thủ công, phải có hai người, một người đẩy sợi cói vào và một người dập.
     Tỷ mẩn, chậm chạp, lê la trên mặt đất, mỗi ngày làm nhanh chỉ được ba chiếc chiếu đã mệt lả người. Nay chỉ cần một người ngồi ghế đút từng sợi cói vào máy, mỗi ngày cho ra ít nhất chín chiếc chiếu, nhanh và đẹp hơn nhiều.
     Trước đây, chiếu dệt xong mang ngay ra chợ cho kịp bán. Xã Định Yên có chợ chiếu họp cả ngày lẫn đêm, vì thế còn gọi là chợ ma vì họp ban đêm trong mập mờ đèn dầu, người mua người bán lọ mọ trao đổi không rõ mặt nhau. Vậy nhưng chợ luôn đông đúc người mua bán.
     “Dân sợ chiếu ế, thương lái thì sợ không đủ hàng nên thường xuyên túc trực. Chợ ma vì thế mà không bao giờ vãn người”, chị Tuyết giải thích. Bây giờ thì chợ ma chỉ còn vài hộ nhỏ lẻ vì hệ thống thương lái đã đến từng nhà, đặt hàng trước khi dệt.  
     Nghề chiếu Định Yên qua trăm năm, qua chiến tranh loạn lạc, trải nhiều phen thăng trầm và vẫn giữ được nghề.
Khó ló khôn
     Ông chủ nhiệm HTX Chiếu cói Thanh Bình Phan Văn Bé Tư cho biết, chiếu Định Yên là thương hiệu chung của bốn làng nghề trải trên địa bàn hai xã Định Yên và Định An (Lấp Vò, Đồng Tháp).
      Hai xã có 40.000 hộ dân, trong đó có 18.000 hộ làm chiếu. Đến nay, số hộ làm chiếu thủ công chỉ còn khoảng 20%, còn lại là máy móc. Chiếu Định Yên làm máy đẹp, bền, được tiêu thụ nhiều nơi với tiền lời khá nên người làm chiếu sống khỏe với nghề, không còn lam lũ như trước.Tuy nhiên, giai đoạn công nghiệp hóa không phải suôn sẻ.
“Lúc đầu, dân Định Yên lạ lẫm với cái máy, không ai làm được, thị trường thì không quen sản phẩm mới nên trăm bề khốn khó”, ông Bé Tư nhớ lại.
      Nhiệt huyết với chiếu cói càng mãnh liệt, ông kiên trì vận động từng nhà đưa người lên xã học dệt chiếu bằng máy. Chiếu dệt bằng máy, sợi bố thủ công được thay bằng sợi chỉ trắng mềm mại và bền nhưng cũng lạ lẫm với thị trường. Các thành viên trong tổ hợp tác đi khắp nơi ký gởi nhờ bán giùm. Dần dà, nhân công và thị trường cũng quen, chiếu Thanh Bình dệt bằng máy bắt đầu có chỗ đứng.
       Năm 2005, Tổ trưởng Bé Tư lại có quyết định táo bạo: Tháo rời hai chiếc máy dệt của Hàn Quốc để nghiên cứu, nhằm chế thêm máy cho rẻ. Ông không biết gì về cơ khí khiến nhiều người lo ngại. Nhưng đã quyết là làm, ông cùng vài người sao chép cẩn thận từng chi tiết máy rồi đặt hàng cho các cơ sở cơ khí sản xuất, mang về lắp ráp.
      “Lúc đầu làm được sáu chiếc, cũng ì ạch lắm, phải chỉnh sửa nhiều ngày đêm mới hoạt động được, cải tạo thêm mới chạy trơn tru”, ông Bé Tư tâm sự.
Thành công đó đã khích lệ ông thành lập HTX cơ khí sản xuất và bảo trì máy dệt chiếu. Từ đó máy dệt được phủ khắp toàn vùng.
chiếu cói xuất ngoại
      Chủ nhiệm HTX Chiếu cói Thanh Bình lăn lộn khắp các hội thảo, tận dụng các mối quan hệ để tiếp thị. Đến đâu ông cũng mời đối tác về HTX Chiếu cói Thanh Bình xem việc sản xuất chiếu. Kết quả là hợp đồng ngày càng nhiều, thương hiệu chiếu Thanh Bình có chỗ đứng trong thị trường.
Đến nay, chiếu Thanh Bình đã được chứng nhận thương hiệu độc quyền, có đại lý lớn ở khắp các tỉnh ĐBSCL, miền Đông Nam Bộ, xuất khẩu đi Hàn Quốc,Thái Lan, Campuchia mỗi năm hàng chục ngàn chiếc.
Ông chủ nhiệm nhỏ người, chia sẻ cùng tôi tham vọng đưa chiếu cói Định Yên vươn xa hơn. “Làm ăn thời hội nhập phải đầu tư lâu dài, bài bản, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng, mới mong phất lên được”, ông Bé Tư tâm huyết.
Chiếu cói Thái Bình - Hotline: 0167 453 1842